Bà Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) khi tham gia giải trình cùng với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại phiên chất vấn sáng ngày 12/11 vừa qua đã nêu lên việc cần thận trọng trong điều hành chính sách nhìn từ bài học kinh nghiệm trong cuộc khủng hoảng 2008-2009, bà dự báo rằng rủi ro lạm phát năm tới rất cao. 

Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, chính sách tiền tệ cần thực hiện các nhiệm vụ chính là điều hành để góp phần kiểm soát lạm phát, vĩ mô và đảm bảo an toàn, khả năng chi trả của hệ thống. Bà thông tin thêm rằng, xem xét các công cụ chính sách trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước phải căn cứ trên hai mục tiêu này, đồng thời đảm bảo cân đối lớn của vĩ mô.

Đánh giá việc thực hiện chính sách từ đầu năm 2020, Thống đốc cho biết, đại dịch đã tác động nghiêm trọng tới sản xuất kinh doanh, và Ngân hàng Nhà nước trong thời gian qua đã tích cực thực hiện chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ.

Ngay từ đầu năm 2020, trong điều hành lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã ba lần giảm lãi suất, từ 1,5-2%. "Đây là mức giảm sâu so với các nước trong khu vực", bà Hồng nói.

td

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng phát biểu tại kỳ họp Quốc hội 

Ngoài việc điều hành lãi suất, cơ quan điều hành cũng chỉ đạo, kêu gọi các tổ chức tín dụng giảm cả với các khoản vay cũ. Mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm 1,66% so với trước dịch, với tổng mức giảm lãi suất khoảng 30.000 tỷ đồng. Ngân hàng cũng giảm phí hơn 2.000 tỷ đồng cho khách hàng. Bằng việc này đã giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp và người dân.

Phát biểu trước nghị trường về dư địa chính sách, bà Hồng cho rằng, năm 2021, chỉ tiêu đạt lạm phát dưới 4% có thể đạt được nhưng năm 2022, rủi ro lạm phát có áp lực rất lớn.

Nền kinh tế thế giới đang trong quá trình phục hồi khiến giá cả hàng hóa đang có xu hướng gia tăng, một số mặt hàng như xăng dầu đã tăng rất cao, nhiều nước phát triển đã ghi nhận mức lạm phát cao nhất lịch sử. Với nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, áp lực rủi ro lạm phát nhập khẩu rất lớn.

Bà Hồng cho biết các Ngân hàng trung ương trên thế giới hiện cũng giảm dần nới lỏng chính sách, theo tính toán của bà, đã có 65 lượt tăng lãi suất, tạo áp lực điều hành cho Việt Nam thời gian tới.

Dưới góc nhìn từ nhiệm vụ thứ hai của chính sách, nợ xấu của các tổ chức tín dụng cũng đang gia tăng. Các ngân hàng giảm lãi suất bằng chính nguồn lực chứ không phải từ ngân sách. Khi nợ xấu gia tăng các tổ chức cũng phải dùng nguồn lực để xử lý.

"Nếu nguồn lực của tổ chức tín dụng suy giảm sẽ ảnh hưởng tới hoạt động, tính an toàn của hệ thống", bà Hồng phân tích trước Quốc hội.

Người đứng đầu NHNN cũng không quên nhắc lại bài học kinh nghiệm rất lớn từ thời gian trước khi mà tăng trưởng tín dụng cao, thực hiện các gói hỗ trợ lãi suất năm 2008, không tính toán cẩn thận dẫn đến rủi ro lạm phát năm 2011, có thời điểm lên tới 18%.

Về các giải pháp, bà Hồng cho biết NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo cố gắng tiết giảm chi phí hoạt động để giảm lãi suất nhưng phải đảm bảo mức độ an toàn của từng tổ chức tín dụng và hệ thống.

Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan để tính toán các gói hỗ trợ lãi suất hợp lý, trên cơ sở ổn định vĩ mô, phòng ngừa rủi ro lạm phát.

Bộ trưởng KH&ĐT: Hỗ trợ tiền mặt sẽ kèm rủi ro lạm phát?

Trong buổi chất vấn hôm chiều 11/11, Đại biểu Nguyễn Văn Hiển (Đoàn Lâm Đồng) đặt vấn đề cần gói hỗ trợ đủ lớn, đặc biệt là gói tiền mặt tương đương 3-4% GDP để hồi phục kinh tế. Nhưng đổi lại sẽ tăng nợ công, tăng bội chi, nợ Chính phủ. Còn nếu không có các giải pháp đủ lớn, nền kinh tế sẽ chậm phục hồi, lỗi nhịp so với sự phát triển của các nước, kèm theo nhiều hệ lụy tiêu cực. Ông Hiển hỏi bộ trưởng rằng có chấp nhận vượt trần ngân sách, tăng nợ công hay hỗ trợ không đủ lớn, không đủ liều?

Nêu quan điểm về vấn đề này, Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng cho biết nếu Nhà nước ban hành chính sách hỗ trợ bằng tiền mặt, tung tiền ra thị trường, cấp tiền cho người dân, nguy cơ và rủi ro rất lớn là tăng lạm phát.

Về quan điểm với nới bội chi và nợ công, ông Dũng ủng hộ nhưng "trong một khoảng mà chúng ta có thể kiểm soát được". Nếu không đồng ý nới bội chi và nới nợ công thì rất khó có điều kiện tăng trưởng. Nếu không tăng trưởng thì khó đạt mục tiêu 5 năm, chiến lược 10 năm rồi khát vọng của chúng ta đến năm 2045 là nước phát triển.

Theo Tầm nhìn

Bạn nghĩ sao?