Tiên Nguyễn -
 
Theo Hiệp hội ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu bình quân của các công ty tài chính đã tăng từ 6% hồi đầu năm lên 9 - 10% (cuối tháng 9/2021) và dự kiến sẽ còn tiếp tục tăng do ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.

Đây là thông tin được đưa ra tại Hội nghị Sơ kết hoạt động 9 tháng đầu năm 2012 của nhóm công ty tài chính do Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tổ chức cuối tuần qua, tại Hà Nội.

5123_AF2I9995

Các công ty tài chính đề xuất nới lỏng room tín dụng

Nợ xấu tăng mạnh, vốn thừa không thể đầu tư

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch COVID-19, tuy nhiên, thời gian qua các công ty tài chính tiêu dùng là hội viên của Hiệp hội đã rất tích cực mở rộng, đa dạng sản phẩm dịch vụ, giảm lãi suất, đơn giản hóa thủ tục cho vay nhằm tăng cường tiếp cận tín dụng qua các kênh chính thức, đặc biệt là với người dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Qua đó, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống, gia tăng công bằng xã hội và hạn chế tín dụng đen.

Tính đến nay, tổng vốn điều lệ của các công ty tài chính hội viên đã đạt 22.195 tỷ, tăng trên 21% so với tổng vốn điều lệ năm 2020 và chiếm khoảng gần 80% tổng vốn điều lệ của toàn khối các công ty tài chính. Tổng tài sản các công ty tài chính hội viên tính đến cuối tháng 9/2021 đạt khoảng 151.000 tỷ tăng nhẹ khoảng 2% so với cuối năm 2020.

Mặc dù vốn và tài sản được cải thiện, song tổng dư nợ tín dụng 9 tháng đầu năm nay của khối công ty tài chính gần như không tăng trưởng so với cuối năm 2020, đạt 129.000 tỷ đồng. Trong khi đó, tỷ lệ nợ xấu bình quân tăng lên 9 - 10%, cao hơn nhiều con số 6% cuối năm 2020 và có nguy cơ sẽ tiếp tục tăng cuối năm 2021.

Nguyên nhân được Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đưa ra là do khách hàng vay của các công ty tài chính đều là khách hàng “dưới chuẩn” nên nguy cơ nợ xấu do đại dịch COVID-19 đang hiện hữu với các công ty tài chính.

“Nhìn chung, đặc thù khách hàng của các công ty tài chính là người lao động có thu nhập thấp, công nhân viên, tiểu thương… đây là nhóm đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất bởi dịch bệnh COVID-19. Mặt khác, do nhiều thành phố lớn thực hiện giãn cách xã hội nên hoạt động của nhóm các công ty tài chính tiêu dùng cũng bị ảnh hưởng, có tiền nhưng không thể cho vay. Những yếu tố này dẫn tới phát sinh nợ quá hạn, nợ xấu tăng cao, đồng thời cũng hạn chế tăng trưởng, thậm chí tăng trưởng âm”, ông Hùng đánh giá.

Bên cạnh đó, theo phản ánh của các công ty tài chính, việc phân loại nhóm nợ, trích lập dự phòng rủi ro, dự phòng bắt buộc (theo Thông tư 01, 03, 14) rất lớn và hiện đang được thực hiện thủ công, không có phần mềm phù hợp gây khó khăn và khó tránh khỏi việc xảy ra sai sót trong quá trình xác định nhóm nợ khách hàng.

Các công ty tài chính cũng đang rất lúng túng vì các vướng mắc liên quan đến các văn bản pháp lý như Nghị định 39/2014/NĐ-CP, Thông tư số 43/2016/TT-NHNN và Thông tư 18/2019/TT-NHNN chưa đưa ra cơ chế phân loại rõ ràng về cho vay tiêu dùng và vay phục vụ đời sống. Quy định về tổng dư nợ và tỷ lệ tối đa cho vay tiêu dùng giải ngân trực tiếp cho khách hàng chưa phù hợp với nhu cầu người vay; Quy định về điểm giới thiệu dịch vụ (địa điểm, hợp đồng,...) làm hạn chế kênh tiếp cận khách hàng; Quy định về chỉ tiêu an toàn, tỷ lệ nợ xấu, quy định nội bộ (nhắc nợ, kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay) chưa phù hợp với đặc thù và tính chất hoạt động của công ty tài chính tiêu dùng và mức độ rủi ro của khách hàng.

Hơn nữa, room tín dụng mà Ngân hàng Nhà nước cấp cho các công ty tài chính quá thấp làm hạn chế khả năng tăng trưởng về quy mô và điều hòa tỷ lệ nợ xấu của các công ty tài chính do nhu cầu của khách hàng vay tăng lên nhất là sau dịch COVID-19 và chưa phù hợp với đề án tái cơ cấu đã được Thống đốc phê duyệt. Nhiều công ty tài chính tăng trưởng tín dụng âm trong quý 3/2021, thừa vốn song không thể mang đi đầu tư vào các giấy tờ có giá vì Ngân hàng Nhà nước không cấp phép, dẫn tới giảm hiệu quả hoạt động.

Kiến nghị tăng trần lãi phạt

Trước khó khăn, bất cập hiện hành, nhiều công ty tài chính đề xuất Ngân hàng Nhà nước xem xét áp dụng cơ chế tăng trưởng linh động, không áp trần tăng trưởng tín dụng (hoặc nới lỏng room tín dụng) đối với các công ty tài chính sau khi nền kinh tế đã kiểm soát được dịch bệnh COVID-19 nhằm hỗ trợ các công ty trong công tác cung ứng vốn cho người dân phục hồi việc kinh doanh hoặc cải thiện chất lượng cuộc sống.

Bên cạnh đó, có cơ chế hỗ trợ vốn cho khối tài chính tiêu dùng để các công ty tài chính có thể giảm lãi suất hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân. Các công ty tài chính cũng đề nghị Ngân hàng Nhà nước tháo gỡ nhiều vướng mắc, bất cập liên quan đến Thông tư 43: Xem xét tỷ lệ nợ xấu định hướng riêng cho nhóm công ty tài chính, theo trung bình các công ty tài chính tiêu dùng, phù hợp đặc thù ngành.

Đồng thời, kịp thời hoàn thiện, bổ sung các văn bản hướng dẫn (hành lang pháp lý) áp dụng công nghệ số, chuyển đổi số như eKYC, định danh số, chữ ký số, chữ ký điện tử, bao gồm cả việc giải quyết các tranh chấp đối với các giao dịch được thiết lập dưới hình thức chữ ký số, chữ ký điện tử, hướng dẫn phương thức thanh toán qua ví điện tử…

Ngoài ra, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định mức lãi chậm trả tối đa không quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, theo các công ty tài chính là tương đối thấp, gây khó khăn trong quá trình thu hồi nợ, nhất là khi các công ty tài chính có các sản phẩm cho vay tiêu dùng không có tài sản bảo đảm... Do đó, các công ty tài chính đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét đưa ra tiêu chí cho vay phù hợp với khách hàng cá nhân vay tiêu dùng. Trong đó điều chỉnh mức lãi chậm trả lãi.

Đồng thời, xem xét bổ sung các quy định cho phép các tổ chức tín dụng có thể chủ động trong việc áp dụng các quy định về cho vay theo hướng tinh gọn thủ tục, trình tự vay vốn trên cơ sở bảo đảm an toàn và tự chịu trách nhiệm về chất lượng tín dụng để phù hợp hơn với đặc thù công tác thu hồi nợ và đối tượng khác hàng vay vốn của các công ty tài chính.

Theo Tầm nhìn

Bạn nghĩ sao?