Lam Chiều - 09:26 - 27/07/2020
 
Thời gian gần đây không ít trường hợp nạn nhân dính vào những vụ vay nặng lãi phải lựa chọn cái chết để giải quyết vấn đề nhưng họ còn cả gia đình ở phía sau nên chỉ biết kêu cứu trong tuyệt vọng.
Nhiều người lâm vào cảnh khốn cùng vì vay nợ

Nhiều người lâm vào cảnh khốn cùng vì vay nợ

Khi đã dính vào những khoản vay nặng lãi, hầu hết các nạn nhân đều rơi vào tình cảnh sống không được mà chết cũng không xong. Con nợ sẽ không bao giờ thoát được nợ dù có cố gắng làm hết sức để trả nợ.

Minh chứng gần đây nhất là trường hợp của hai vợ chồng ông Trần Thánh Nông (quận Thủ Đức, TP.HCM). Vợ chồng ông Nông đã vay của bạn thân 3,150 tỷ đồng nhưng sau 2 năm lãi chồng lãi số tiền nợ tăng lên hơn 10 tỷ đồng, khiến cuộc sống của vợ chồng ông Nông lâm vào cảnh đường cùng.

Cụ thể, ngày 01/01/2017, ông Nông có viết giấy vay ông P. V. L. số tiền 1,5 tỷ đồng, trong giấy ghi nợ không ghi rõ lãi suất.

Ngày 12/01/2017, ông Nông có viết giấy nhằm mục đích bảo lãnh cho ông T. Q. H. mượn ông L. số tiền 2,2 tỷ đồng (thực tế là ông H. mượn 1,5 tỷ đồng từ trước đó và cộng với tiền lãi từ ngày 20/11/2016 đến 12/01/2017 là 700 triệu đồng). Ông L. yêu cầu tôi viết Giấy vay tiền chung với khoản vay ngày 01/01/2017 và đồng thời xé bỏ Giấy vay tiền ngày 01/01/2017. Ngày 28/4/2017, ông Nông viết giấy mượn của ông L. số tiền 150 triệu đồng, không tính lãi, không ghi rõ thời hạn vay.  Đến ngày 13/6/2018, ông Nông đã  trả cho ông Luận số tiền số tiền 2 tỷ đồng.

Tuy nhiên, do khoản vay của ông H. không được trả lãi đầy đủ nên ông L. tính lãi mẹ đẻ lãi con, đến kỳ ép ông Nông viết nhiều giấy vay (thực chất là hợp thức hóa tiền lãi mà trên thực tế tôi không nhận tiền), cụ thể: Giấy vay tiền ngày 05/3/2017 với số tiền 3.000 USD và 130.000.000 đồng; Giấy vay tiền ngày 14/4/2017 với số tiền 01 tỷ đồng.

Giấy mượn tiền viết tay giữa ông Nông với bên cho mượn không hề ghi mức lãi suất.

Giấy mượn tiền viết tay giữa ông Nông với bên cho mượn không hề ghi mức lãi suất.

Ngày 01/01/2018, ông L. dẫn tôi đến gặp ông N. H. H. ép ông Nông phải viết Giấy vay tiền ông H. với số tiền 04 tỷ đồng, để cấn trừ vào số tiền lãi mà ông Nông đã mượn trước đó của ông L. Trên thực tế thì ông Nông không hề nhận khoản tiền này.

Như vậy, tổng số tiền ông L. tính toán buộc ông Nông phải trả số tiền lên đến 10 tỷ đồng. Trong khi đó, số tiền thực chất ông Nông vay của ông L. là 1.650.000.000 đồng và số tiền bảo lãnh cho ông H. vay là 1.500.000.000 đồng. Vào cuối năm 2018, ông L. dẫn theo một số người yêu cầu tôi đến Văn Phòng thừa phát lại quận Thủ Đức ép ông Nông phải ký Giấy nợ với số tiền trên 10 tỷ đồng nhưng ông Nông không ký.

Ngày 05/4/2019, ông N. H. H. nộp Đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức yêu cầu ông Nông phải trả số tiền 4.800.000.000 đồng. Hiện tại Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức đang tiến hành giải quyết theo Quy định của pháp luật. Toà án nhân dân Quận Thủ Đức đã Quyết định đưa vụ án ra xét xử vào 8h30 ngày 27/7/2020.

Ngày 11/4/2019, ông P. V. L. nộp Đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức yêu cầu ông Nông phải trả số tiền 4.368.798.400 đồng sau khi đã cấn trừ số tiền 2 tỷ đồng mà ông Nông đã trả trước đó.

Hiện tại vụ án này đã được TAND Quận Thủ Đức xét xử sơ thẩm và TAND TP.HCM xét xử phúc thẩm (bản án có hiệu lực), buộc tôi phải thanh toán số tiền 4.163.702.259 đồng cho ông Luận (Kèm theo Bản án sơ thẩm, Bản án Phúc thẩm).

Ngày 16/3/2020, ông Nông có Đơn kêu cứu gửi đến Ban nội chính TP.HCM, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân TP.HCM, Giám đốc Công an TP.HCM yêu cầu xử lý đối với hành vi cho vay nặng lãi, lừa đảo, cưỡng đoạt tài sản của ông P.V. L. Các cơ quan này đã chỉ đạo Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 2 TP. HCM xem xét giải quyết.

Đa số các con nợ phát hiện ra mức lãi suất vay cắt cổ là khi đã bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát. Nguyên nhân chính xuất phát từ sự chủ quan và dễ dãi của người đi vay.

Liên quan đến vấn đề này, trao đổi với PV, Luật sư Lâm Hiền Phước (Đoàn Luật sư TP.HCM) cho biết, về lãi suất lúc đầu ông H. yêu cầu trả lãi 1,7%/ tháng (1,7% x 12 tháng = 20,4%/ năm) - dù trong Giấy mượn tiền ngày 01/01/2018 không ghi lãi suất là không phù hợp quy định pháp luật.

Căn cứ theo Điều 468-Bộ Luật Dân sự 2015 - Lãi suất: Khoản 1 là kg được vượt quá 20%/ năm. Tại khoản 2 quy định: "Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ". Do vậy sau đó ông H. thay đổi mức lãi suất là 0,83%/ tháng (0,83 x 12 tháng = 9,96%/ năm). Tuy nhiên không hề có bất cứ chứng cứ nào nói lên "có thỏa thuận về việc trả lãi" nên yêu cầu này là không đúng quy định pháp luật cần bác yêu cầu.

Vấn đề quan trọng mấu chốt về pháp lý của vụ án này là không hề có việc nhận 04 tỷ đồng.  Giấy mượn nợ không ghi đã nhận đủ tiền + Giấy mượn nợ có ghi chữ "có" tuy nhiên lời khai các bên mâu thuẫn nhau. Hai ông chủ nợ H. và L. đều nói có nhận nhưng cũng không thống nhất: ai đưa cho ai, ai nhận, đưa lúc nào... đặc biệt lời khai của ông L. có 05 lần lập tại Tòa đều không khớp nhau: Như vậy cần phải chứng minh "có hay không việc nhận tiền - sự thật khách quan của vụ án là đâu". Hiện tại các lời khai và đối chất đều mâu thuẫn nhau nên chứng cứ giao nhận tiền còn rất mơ hồ, không rõ ràng cần phải điều tra, xác minh làm rõ.

Trong thời gian xử lý hai vụ án dân sự, ông Nông đã kêu cứu đến các cấp lãnh đạo TP.HCM (Nội chính Thành Ủy, VKSTP, CATP...) và họ đã chỉ đạo CQĐT Công an Quận 2 điều tra xác minh hành vi tố cáo "Cho vay lãi nặng, Lừa đảo, Cưỡng đoạt tài sản" của ông Nông đối với L./ H. - và có Giấy triệu tập làm việc. Ông Nông yêu cầu Tòa Tạm đình chỉ chờ giải quyết mà Tòa không chấp nhận - vi phạm khoản d Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Việc Tòa án nhân dân và VKS Thủ Đức cho rằng Cơ quan điều tra phải có Thông báo Thụ lý tin báo tội phạm mới có căn cứ xử lý Tạm đình chỉ, trong khi đó thì CQĐT Công an Quận 2 lại không ra thông báo này mà chỉ tiến hành điều tra, xác minh tin báo dẫn đến vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người dân - Tòa, Viện không tiến hành xác minh khi có đơn yêu cầu là việc đùn đẩy trách nhiệm, thiếu trách nhiệm trong việc phối hợp giải quyết giữa các cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ pháp luật, làm cho pháp luật không được xử lý công bằng, nghiêm minh.

Theo Tầm nhìn

Bạn nghĩ sao?