Đức Anh - 07:56 - 04/11/2020
 
Sáng 29/10, Tạp chí Nhà đầu tư đã tổ chức tọa đàm "Góp ý cơ chế, chính sách phát triển năng lượng tái tạo" nhằm lấy ý kiến các chuyên gia, nhà quản lý, cộng đồng các nhà đầu tư về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng tái tạo.

Tham dự buổi tọa đàm có sự góp mặt của đại diện Ban Kinh tế Trung ương, Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam... và các chuyên gia năng lượng, tài chính, lãnh đạo các doanh nghiệp hàng đầu cả trong và ngoài nước đang đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo.

Phát biểu khai mạc TS. Nguyễn Anh Tuấn, Tổng biên tập Tạp chí Nhà đầu tư, Trưởng ban tổ chức, với quan điểm mới và hệ thống các nhiệm vụ và giải pháp đồng bộ, Nghị quyết 55 ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Bộ Chính trị về định hướng phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được đông đảo các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước đón nhận và kỳ vọng sẽ tạo ra đột phá mới cho phát triển ngành năng lượng Việt Nam trong thập kỷ tới, nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo...

nguyen-anh-tuan

TS. Nguyễn Anh Tuấn, Tổng biên tập Tạp chí Nhà đầu tư.

Trên thực tế từ vài năm trở lại đây, việc đầu tư phát triển các dự án năng lượng tái tạo đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thống kê của Viện nghiên cứu của BIDV cho thấy, nếu năm 2016 tổng công suất lắp đặt năng lượng tái tạo mới đạt khoảng 303 MW thì năm 2020 ước tăng gấp hơn 20 lần, đạt khoảng 7.000 MW.

Dự báo trong thời gian tới, đầu tư vào các dự án điện gió và điện mặt trời sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát của các viện nghiên cứu độc lập, cũng như phản ánh của các nhà đầu tư, các dự án năng lượng tái tạo hiện đang gặp không ít khó khăn vướng mắc.

Bày tỏ quan điểm về vấn đề “năng lượng tái tạo - tiềm năng to lớn” Giáo sư TSKH Nguyễn Mại cho biết đến nay nguồn năng lượng sơ cấp của nước ta đang cạn dần, khả năng cung ứng hạn chế, nhập khẩu nhiên liệu cho phát điện gia tăng; cơ cấu điện năng không còn thích hợp với định hướng phát triển “kinh tế xanh” của quốc gia.

nguyen-mai

Giáo sư TSKH Nguyễn Mại.

Để khắc phục thực trạng đó, Bộ Công Thương đã trình Chính phủ nhiều giải pháp như khuyến khích phát triển điện gió, điện mặt trời, bổ sung điện khí sử dụng LNG; xây dựng lưới điện đồng bộ để giải phóng công suất các nguồn điện; khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả. Trong đó phát triển năng lượng tái tạo (NLTT) được nhiều chuyên gia kì vọng là “đòn bẩy” bù đắp nguy cơ thiếu điện trong tương lai.

Dự báo mới nhất của Viện Năng lượng ở kịch bản cơ sở, điện thương phẩm tăng khoảng 8%/năm giai đoạn 2021 – 2030; năm 2025 đạt khoảng 337,5 tỷ kWh và năm 2030 đạt khoảng 478,1 tỷ kWh. Với tốc độ tăng trưởng đó, bình quân mỗi năm cần có thêm khoảng 5.000 MW - 6.000 MW công suất nguồn điện và hệ thống lưới điện truyền tải, vốn đầu tư khoảng 8 tỷ USD.

Tính đến cuối tháng 8/2020, tổng công suất các nguồn điện NLTT đạt gần 6.000 MW, trong đó gần 5.245 MW điện mặt trời, khoảng 450 MW điện gió, 325 MW điện sinh khối, gần 10 MW điện chất thải rắn và trên 47.000 điện mặt trời mái nhà với công suất khoảng 1.000 MW, chiếm trên 10% tổng công suất điện năng. Ban chỉ đạo Quốc gia về phát triển điện lực đặt mục tiêu đến năm 2025 công suất điện mặt trời khoảng 14.500 MW và điện gió khoảng 11.500 MW.

Năm 2020 nhiệt điện than chiếm khoảng 33,2%, điện khí, dầu chiếm 14,8%, thủy điện chiếm 30,1%, thủy điện nhỏ và NLTT chiếm 20,3% tổng công suất; tổng sản lượng điện gió và điện mặt trời đạt 12 tỷ kWh, vượt Chiến lược phát triển NLTT khoảng 3 lần.

Năm 2025 nhiệt điện than chiếm khoảng 37,1%; điện khí, dầu chiếm 13,7%, thủy điện chiếm 18,2%, thủy điện nhỏ và NLTT chiếm 25,5% tổng công suất; tổng sản lượng của điện gió và điện mặt trời đạt 36 tỷ kWh, vượt Chiến lược phát triển NLTT khoảng 2,6 lần.

Trung tâm điều độ hệ thống điện quốc gia ghi nhận một hiện tượng “chưa từng có trong lịch sử 65 năm ngành điện” khi đón nhận gần một trăm nguồn điện vào hệ thống chỉ trong một thời gian rất ngắn. Năm 2018 chỉ có 3 nhà máy đóng điện, 3 tháng đầu năm 2019 thêm 5 nhà máy, từ tháng 4 đến tháng 6 có 81 nhà máy mới vào hệ thống điện năng; 6 tháng đầu năm 2019 có gần 90 nhà máy điện mặt trời hòa lưới với công suất gần 4.500 MW.

Báo cáo của Bộ Công Thương ngày 20/3/2020 cho biết, tổng công suất các dự án điện gió đã được phê duyệt vào quy hoạch là khoảng 4.800 MW, dự kiến đưa vào vận hành vào năm 2021. Các con số thống kê đã thể hiện tiềm năng của năng lượng tái tạo của nước ta và chính sách khuyến khích phát triển NLTT đã phát huy tác dụng rõ rệt...

Trong những năm gần đây nước ta đã thu được kết quả đáng khích lệ đối với thu hút đầu tư, phát triển NLTT nhờ vào đổi mới thể chế, chính sách và quản lý nhà nước.

Tiềm năng điện mặt trời, điện gió, điện sinh khối còn rất lớn cần được khai thác có hiệu quả để đáp ứng nhu cầu gia tăng năng lượng điện cho tăng trưởng với tốc độ cao hơn, biến đổi cơ cấu năng lượng theo hướng xây dựng “kinh tế xanh”, ít khí thải nhà kính, kinh tế tuần hoàn giảm thiểu rác thải.

Đẩy nhanh quá trình hoàn thiện thể chế, chính sách, quy hoạch, cải cách thủ tục hành chính theo hướng chính phủ số tạo thành hệ thống giải pháp đủ mạnh để biến tiềm năng NLTT thành nguồn điện năng sạch trong tương lai.

hien

TS. Nguyễn Đức Hiển – Phó Trưởng ban Kinh tế Trung Ương 

TS. Nguyễn Đức Hiển – Phó Trưởng ban Kinh tế Trung Ương cũng chỉ ra những điểm mới về quan điểm chỉ đạo phát triển năng lượng quốc gia:

Thứ nhất, xác định rõ hơn và toàn diện hơn về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và vị trí, vai trò của phát triển năng lượng quốc gia. Nghị quyết 55 lần đầu đề cập rõ về vấn đề bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong tình hình mới, theo đó “bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia là nền tảng, đồng thời là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội”. Tại Nghị quyết này, phát triển năng lượng quốc gia không chỉ là nhiệm vụ “trọng tâm xuyên suốt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” như đã nêu tại Nghị quyết 18 mà “phải ưu tiên phát triển năng lượng nhanh và bền vững, đi trước một bước, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm quốc phòng, an ninh”. Vấn đề phát triển năng lượng phải gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội cũng lần đầu tiên nêu tại Nghị quyết; đây cũng là điểm mới, thể hiện rõ tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển năng lượng đất nước.

Thứ hai, quan điểm mạnh mẽ và toàn diện hơn về phát triển thị trường năng lượng quốc gia cũng như gắn kết giữa phát triển năng lượng với thể chế và xu thế hội nhập quốc tế. Nghị quyết 55 đã nêu quan điểm “phát triển năng lượng quốc gia phải phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xu thế hội nhập quốc tế”. Nếu như trước đây, tại Nghị quyết 18 mới chỉ nêu quan điểm “từng bước hình thành thị trường năng lượng” thì đến Nghị quyết 55, Bộ Chính trị đã nhấn mạnh quan điểm “nhanh chóng xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, đa dạng hoá hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh; áp dụng giá thị trường đối với mọi loại hình năng lượng”. Đây là những điểm có tính đột phá, khẳng định rõ nét hơn, quyết liệt hơn yêu cầu phải nhanh chóng và triệt để thực hiện cơ chế thị trường đối với ngành năng lượng qua cơ chế giá năng lượng để thu hút, phân bổ nguồn lực đầu tư trong phát triển các loại hình năng lượng.

Thứ ba, quan điểm mạnh mẽ hơn, cụ thể và toàn diện hơn về việc thu hút và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển năng lượng, đặc biệt là kinh tế tư nhân, kể cả trong lĩnh vực truyền tải điện. Nếu như tại Nghị quyết 18 mới đề cập quan điểm “Thúc đẩy nhanh việc xoá bao cấp, xoá độc quyền, tiến đến xoá bỏ hoàn toàn việc thực hiện chính sách xã hội thông qua giá năng lượng” thì đến Nghị quyết 55, Bộ Chính trị đã nêu rõ “Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng; kiên quyết loại bỏ mọi biểu hiện bao cấp, độc quyền, cạnh tranh không bình đẳng, thiếu minh bạch trong ngành năng lượng”. Đây là những quan điểm mới, phù hợp với tình hình thực tiễn, đánh giá đúng vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế.

Thứ tư, nêu rõ quan điểm về phát triển các nguồn năng lượng phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển năng lượng của đất nước cũng như của thế giới, theo đó Nghị quyết xác định “Phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hoá các loại hình năng lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch; khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng hoá thạch trong nước, chú trọng mục tiêu bình ổn, điều tiết và yêu cầu dự trữ năng lượng quốc gia; ưu tiên phát triển điện khí, có lộ trình giảm tỉ trọng điện than một cách hợp lý; chủ động nhập khẩu nhiên liệu từ nước ngoài cho các nhà máy điện”. Đồng thời, lần đầu tiên tại Nghị quyết này, Bộ Chính trị cũng đặt ra yêu cầu phải tính toán để phân bổ tối ưu hệ thống năng lượng quốc gia trong tất cả các lĩnh vực trên cơ sở lợi thế so sánh của từng vùng, địa phương.

Thứ năm, gắn phát triển năng lượng quốc gia với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nâng tầm vai trò của chính sách sử dụng tiết kiệm năng lượng trong phát triển năng lượng quốc gia. Ngành năng lượng được đánh giá là ngành chịu tác động rất lớn của cuộc CMCN lần thứ tư, do đó, tại Nghị quyết này, Bộ Chính trị nêu rõ quan điểm phải “chú trọng nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong phát triển tất cả các phân ngành, lĩnh vực năng lượng; đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành năng lượng; từng bước làm chủ công nghệ hiện đại, tiến tới tự chủ sản xuất được phần lớn các thiết bị năng lượng”.

Tại Nghị quyết 18, vấn đề sử dụng tiết kiệm năng lượng đã được đề cập nhưng mới dừng lại ở yêu cầu có chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả nhưng đến Nghị quyết 55, việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường đã được nâng tầm, trở thành “quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội”...

quan1

Ông Đỗ Đức Quân – Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lương tái tạo, Bộ Công thương.

Với chủ đề: “Thực trạng và triển vọng phát triển năng lượng tái tạo, cụ thể hóa bằng quy hoạch điện VIII” Ông Đỗ Đức Quân – Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lương tái tạo, Bộ Công thương cho biết: Năng lượng tái tạo từ lâu đã đóng một vai trò quan trọng trong tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng tại Việt Nam. Tính tới cuối năm 2016, khoảng gần 40% số hộ gia đình ở khu vực nông thôn vẫn phụ thuộc vào nguồn năng lượng sinh khối phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Phế thải nông nghiệp, đặc biệt là bã mía, trấu… với tiềm năng rất lớn, đã và tiếp tục được sử dụng triệt để phục vụ sản xuất điện. Ở khu vực vùng sâu - vùng xa, thủy điện nhỏ và cực nhỏ quy mô gia đình cũng như các dự án thủy điện cấp cộng đồng đã cung cấp sản lượng điện đáng kể đáp ứng nhu cầu điện, phục vụ phát triển kinh tế xã hội tại các địa phương. Các dạng năng lượng tái tạo khác như gió, mặt trời đang dần định hình và ngày càng cho thấy được tính ưu việt trong việc tham gia vào chuỗi cung ứng điện với giá thành ngày càng hợp lý và thân thiện với môi trường.

Với nguồn năng lượng tái tạo phân bố trải dài đất nước, Việt Nam được xem là quốc gia có lợi thế lớn để phát triển hầu hết các loại hình năng lượng tái tạo với tiềm năng đáng kể phục vụ phát điện. Số liệu nghiên cứu cho thấy tiềm năng kỹ thuật điện gió trên bờ là khoảng 217 GW ở độ cao khoảng 80m, điện gió xa bờ khoảng 160 GW, điện mặt trời mặt đất khoảng 309 GW, mặt nước khoảng 77 GW và áp mái khoảng 48 GW. Bên cạnh các nguồn điện gió và mặt trời, tổng tiềm năng các nguồn điện năng lượng tái tạo khác có thể khai thác để phát điện lên tới khoảng gần 20.000 MW  gồm có điện rác, điện sinh khối, điện thủy triều….

Thực tế phát triển các nguồn năng lượng tái tạo thời gian vừa qua cho thấy, nếu có cơ chế chính sách phù hợp để phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, chúng ta hoàn toàn có thể đạt được những mục tiêu đặt ra không mấy khó khăn, giúp ngành điện huy động được lượng vốn đầu tư rất lớn từ lĩnh vực tư nhân, giảm áp lực vốn đầu tư vào các công trình nguồn, đồng thời hướng dòng vốn của EVN đầu tư vào các dự án với mục đích cải thiện chất lượng cung cấp điện. Thông qua cơ chế ưu đãi đối với các dự án điện mặt trời tại Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg ngày 06 tháng 4 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ thời gian vừa qua, trong khoảng thời gian chưa đầy 2 năm, số lượng dự án điện mặt trời đưa vào vận hành đã tăng từ vài dự án lên tới 100 dự án với tổng công suất từ vài trăm MW lên tới 5.829 MW, đưa công suất đặt các dự án điện mặt trời từ chỗ chỉ chiếm gần 1% nay đã đạt gần 9% tổng công suất đặt hệ thống.

Các số liệu thống kê cho thấy trong thời gian tới đây, dự kiến các nguồn điện gió và mặt trời sẽ tiếp tục phát triển mạnh. Hiện đã có khoảng 187 dự án nhà máy điện gió với tổng công suất khoảng 11.687 MW và 137 dự án nhà máy điện mặt trời với tổng công suất 13.618 MW đã được bổ sung quy hoạch. Khoảng 312 dự án/78.035 MW các dự án điện gió và 331 dự án /36.581 MW các dự án điện mặt trời hiện đang được các địa phương tiếp tục đề xuất phát triển. Các loại hình năng lượng tái tạo còn lại, mặc dù có tiềm năng khá lớn nhưng chưa thực sự phát triển tương xứng với tiềm năng (hiện điện sinh khối chỉ có 378 MW/ tổng tiềm năng 13,7 GW; điện rác hiện có 10 MW/ tổng tiềm năng 1 GW…).

Chính vì vậy, để phát huy tối đa tiềm năng năng lượng tái tạo của đất nước, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên năng lượng, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao năng lực của các ngành công nghiệp chế tạo, dịch vụ phụ trợ ngành năng lượng, nhiều văn bản chỉ đạo có vai trò là kim chỉ nam cho việc thúc đẩy ngành năng lượng tái tạo phát triển mạnh mẽ như Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam giai đoạn đến 2030, có xét tới năm 2050 và gần đây là Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được ban hành. Theo định hướng trên, tỷ lệ nguồn năng lượng tái tạo vào các năm 2030 và 2045 dự kiến đạt lần lượt khoảng 30% và 43% tổng điện năng sản xuất toàn quốc.

Để đạt được các mục tiêu đề ra, Bộ Công Thương đã tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều cơ chế khuyến khích phát triển điện gió, điện sinh khối, điện từ chất thải rắn và điện mặt trời. Tuy nhiên, để tiếp tục thu hút được các nhà đầu tư, các tổ chức trong và ngoài nước tham gia phát triển năng lượng tái tạo, vẫn cần có những cam kết mạnh mẽ, những cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư bền vững và dài hạn cho lĩnh vực này từ Chính phủ nhằm tạo sự tin tưởng từ các nhà đầu tư.

Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2045 đang được Bộ Công Thương triển khai xây dựng và cơ bản đã hoàn thành Dự thảo lần 1. Trong Đề án lần này, phát triển các loại hình năng lượng tái tạo tương xứng với tiềm năng sẵn có là một trong những nội dung quan trọng được Bộ Công Thương tập trung triển khai, nghiên cứu những giải pháp thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị.

Chính vì vậy, tôi mong buổi tọa đàm lần này sẽ là cơ hội để các đại biểu tham dự bày tỏ quan điểm của mình cũng như sẽ đề xuất, gợi ý các định hướng, chính sách lớn nhằm thúc đẩy hơn nữa sự phát triển bền vững của lĩnh vực năng lượng tái tạo cũng như thu hút sự tham gia ngày càng tích cực hơn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Bộ Công Thương trân trọng lắng nghe và tiếp thu các ý kiến đóng góp tích cực của các đại biểu tham dự buổi tọa đàm để sớm hoàn thiện Quy hoạch điện VIII với chất lượng tốt nhất, đồng thời có cơ sở thực tế để tiếp tục tham mưu, giúp Chính phủ xây dựng các cơ chế, chính sách ngày càng hợp lý và hoàn thiện hơn cho lĩnh vực năng lượng tái tạo tiếp tục cất cánh trong tương lai.

Tham luận về chính sách khuyến khích đầu tư theo mô hình hợp tác công tư vào ngành điện; cơ sở pháp lý để đầu tư theo hình thức mua lại và sáp nhập (M&A) đối với các dự án năng lượng tái tạo, Ông Phạm Minh Hùng – Phó vụ trưởng Vụ Kinh tế Công nghiệp, Bộ Kế hoạch Đầu tư có ý kiến: Ngày 02/10/2020, Chính phủ có Nghị quyết số 140/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Trong Nghị quyết số 140/NQ-CP, Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư “Phối hợp với các bộ, ngành rà soát các văn bản pháp luật liên quan đến môi trường đầu tư, thủ tục đầu tư, thành lập doanh nghiệp, cơ chế đấu thầu nhằm xóa bỏ rào cản để thu hút, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư, đẩy nhanh tiến độ các công trình điện, phát huy có hiệu quả mô hình hợp tác công tư vào đầu tư cơ sở hạ tầng, hình thức mua lại và sáp nhập đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước”.

Chủ đề tham luận tại Buổi tọa đàm hôm nay cũng là nhiệm vụ Bộ Kế hoạch và Đầu tư được Chính phủ giao phải triển khai thực hiện trong thời gian tới. Do đó, trong khuôn khổ Tọa đàm, tôi chỉ nêu một số thông tin cùng chia sẻ và cùng trao đổi để góp phần phục vụ thực hiện nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói riêng, các Bộ ngành nói chung trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW.

Tình hình đầu tư theo mô hình PPP trong ngành điện: Hiện nay, ngành điện có 21 dự án nhà máy nhiệt điện đầu tư theo hình thức Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) với tổng công suất khoảng 27.000 MW, bao gồm: Đã hoàn thành (04 dự án): Phú Mỹ 2-2, Phú Mỹ 3, Mông Dương 2, Vĩnh Tân 1; Đang xây dựng (04 dự án): Hải Dương, Duyên Hải 2, Nghi Sơn 2, Vân Phong 1; Đang hoàn thiện Hợp đồng BOT (04 dự án): Vũng Áng 2,  Nam Định 1, Vĩnh Tân 3, Sông Hậu 2; Đang triển khai đàm phán Hợp đồng BOT (02 dự án): Nhiệt điện than Quảng Trị 1, Dung Quất 2.

Chưa đàm phán Hợp đồng BOT (04 dự án): Sơn Mỹ 1, Sơn Mỹ 2, Quỳnh Lập 2, Nhiệt điện khí Quảng Trị.

Các dự án đã và đang giải quyết các vấn đề pháp lý (03 dự án): Long Phú 2, Vũng Áng 3, Kiên Lương 1.

Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, tổng công suất lắp đặt của hệ thống điện đến năm 2030 khoảng 129.500 MW. Như vậy, chưa xét tới 03 dự án BOT đã và đang giải quyết vấn đề pháp lý thì sẽ có 18 dự án nhiệt điện đầu tư theo hình thức BOT có tiến độ vận hành trước 2030 với tổng công suất khoảng 23.000 MW, đóng góp khoảng 18% tổng công suất hệ thống điện.

Các dự án nêu trên được đã và đang triển khai theo các quy định về PPP/BOT theo cơ sở pháp lý là các Nghị định của Chính phủ qua các thời kỳ, đó là: Nghị định số 62/1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998 của Chính phủ ban hành Quy chế đầu tư theo Hợp đồng BOT, BTO, BT áp dụng cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. (đầu tư BOT của nhà đầu tư trong nước có quy định riêng là Nghị định số 77/CP ngày 18/6/1997).

Nghị định số 78/2007/NĐ-CP ngày 11/5/2007 của Chính phủ ban hành Quy chế đầu tư theo Hợp đồng BOT, BTO, BT.

Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT.

Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.

Nghị định số 63/2018/NĐ-CP ngày 04/5/2018 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.

Xuyên suốt trong các Nghị định nêu trên, đều quy định Nhà nước khuyến khích đầu tư theo hình thức PPP/BOT lĩnh vực “Nhà máy điện, đường dây tải điện” (Riêng Nghị định số 62/1998/NĐ-CP quy định là “sản xuất và kinh doanh điện”); đồng thời có các quy định về việc “Bảo lãnh nghĩa vụ của nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án và doanh nghiệp khác” và “Bảo đảm cân đối ngoại tệ” là những nội dung quan trọng để nhà đầu tư có thể thu xếp được vốn. Các dự án điện PPP/BOT không phải tham gia thị trường điện và nghĩa vụ của EVN được bảo lãnh nên doanh thu của các dự án được đảm bảo...

Về vấn đề khó khăn, vướng mắc đối với phát triển năng lượng tái tạo, đề xuất giải pháp khắc phục, Ông Nguyễn Văn Vy – Phó chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam kết luận: Để đảm bảo cung cấp năng lượng bền vững và sau đó là phát triển kinh tế bền vững của đất nước, Việt Nam cần tăng cường hơn nữa việc thực hiện các chương trình năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng hiệu quả. Theo kinh nghiệm tại nhiều quốc gia đã thành công trong việc thúc đẩy NLTT như Đức, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Trung Quốc và Nhật Bản, những cam kết mạnh mẽ và dài hạn của Chính phủ là rất quan trọng trong việc thực hiện bất kỳ loại chính sách nào nhằm phát triển NLTT. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã có nhiều cơ chế, chính sách khác nhau để thúc đẩy phát triển NLTT. Tiến độ sản xuất NLTT đã tăng nhanh theo thời gian, tốc độ tăng trưởng NLTT ở Việt Nam đã có xu hướng tăng lên trong thời gian tới do ngày càng có nhiều nhà đầu tư quan tâm đến phát triển nguồn năng lượng nhằm tận dụng các ưu đãi của Chính phủ. Việt Nam đã tiến một bước theo hướng tiếp cận chủ động hơn và chính sách về NLTT sớm được bổ sung, sửa đổi nhằm tạo sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư hoặc nhà cung cấp công nghệ NLTT; việc tiếp tục bổ sung, sửa đổi nhằm cung cấp khuôn khổ pháp lý thuận lợi, cho phép các cơ quan quản lý nhà nước sẽ tham gia nhiều hơn; hy vọng rằng các cơ chế, chính sách NLTT sắp được ban hành sẽ có các nội dung nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc đã trình bày ở trên, tạo điều kiện để hướng tới một thị trường bền vững và khuyến khích sản xuất ngày càng nhiều NLTT cho đất nước.

Ho-ta-tin

Ông Hồ Tá Tín – Chủ tịch HĐQT Tập đoàn HBRE 

Về việc khó khăn, vướng mắc trong thời gian trong thời gian qua đối với phát  triển năng lượng tái tạo. Thực tiễn từ doanh nghiệp và giải pháp, đề xuất khắc phục, Ông Hồ Tá Tín – Chủ tịch HĐQT Tập đoàn HBRE cũng đã nêu ra những khó khăn vướng mắc trong thời gian qua đối với phát triển NLTT dưới góc nhìn của doanh nghiệp, về cơ chế chính sách:  Đối với điện mặt trời: Quyết định 11 và 39, với cơ chế giá FIT hấp dẫn đã tạo cú hích mạnh mẽ thu hút nguồn lực đầu tư tư nhân và nước ngoài đã khai thác tối ưu nguồn NLTT và đã lập kỷ lục về phát triển nguồn điện tại Việt Nam khi chỉ trong thời gian ngắn (hơn 02 năm) đã phát triển và đưa vào vận hành đến 4.693MW hòa lưới điện quốc gia. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều thách thức đang đặt ra với các nhà đầu tư vào nguồn điện từ năng lượng mặt trời như giá FIT 2 theo Quyết định 13 có hiệu lực thi hành từ ngày 22/5/2020 nhưng thời hạn áp dụng chỉ đến ngày 31/12/2020 và chưa có cơ chế đấu thầu rõ ràng đối với các dự án điện mặt trời sau năm 2020.

Do đó, việc chưa rõ cơ chế chính sách áp dụng sau năm 2020 sẽ khiến các nhà đầu tư không thể “an tâm” để đầu tư và việc triển khai đầu tư đưa khoảng 10.000MW còn lại vào vận hành là rất khó khả thi nếu không có giải pháp kịp thời và hữu hiệu ngay từ bây giờ.

Đối với điện gió: Chủ trương hỗ trợ phát triển điện gió được đặt nền móng ngay từ năm 2011 bằng việc ban hành Quyết định 11 với cơ chế giá FIT, tuy nhiên do cơ chế giá FIT chưa thật sự hấp dẫn nên đến năm 2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 39 tăng giá FIT lên 8,5Uscent/kWh đối với điện gió trên bờ và 9,8Uscent/kWh đối với điện gió trên biển đã thật sự tạo động lực phát triển điện gió tại Việt Nam khi quy mô công suất tăng vọt từ 37,5MW (năm 2010) lên 11.630MW (năm 2020).

Tuy nhiên, khác với phát triển điện mặt trời khi mà trong suốt thời gian từ 2010 đến nay, chỉ mới 12 dự án với khoảng 448MW/11.630MW đi vào vận hành, đạt tỷ lệ rất thấp so với yêu cầu quy hoạch đề ra.

Với hàng loạt yếu tố đặc thù như trên đã làm tăng đáng kể thời gian đầu tư, xây dựng và hoàn thành một dự án điện gió, trung bình khoảng 2 năm đối với điện gió trên bờ và từ 3-4 năm đối với điện gió ngoài khơi nếu không gặp phải trở ngại khách quan do dịch bệnh làm đứt gãy chuỗi cung ứng (supply chain), vận chuyển và đi lại khó khăn,... như đại dịch Covid-19 gây ra hiện nay. Theo đánh giá của Bộ Công Thương, từ nay đến hết tháng 10/2021 là không đủ thời gian để nhà đầu tư triển khai các hoạt động chuẩn bị và thực hiện xây dựng dự án điện gió trong danh mục dự án được bổ sung quy hoạch và theo đánh giá cần thiết phải kéo dài giá FIT theo Quyết định 39.

Mặt khác, việc chưa có quyết định chính thức cho phép kéo dài cơ chế giá FIT sau tháng 10/2021 đối với các dự án điện gió đã được bổ sung quy hoạch đã gây rất nhiều nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay cho dự án do các ngân hàng lo ngại tính rủi ro trong phương án tài chính và trả nợ vay không đảm bảo...

Về điều kiện tiếp cận vốn vay: Khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng trong nước do các ngân hàng không đủ hạn mức cho vay và lãi suất cho vay cao (từ 10% trở lên). Bên cạnh đó, việc các ngân hàng yêu cầu tỷ lệ vốn tự có cao (từ 30-40%) đã gây nhiều khó khăn cho việc thu xếp tài chính cho dự án.

Việc vay vốn từ ngân hàng nước ngoài, mặc dù lãi suất thấp (khoảng 4-5%) nhưng nhà đầu tư trong nước khó tiếp cận được do yêu cầu phải có bảo lãnh Chính phủ. Để đảm bảo hiệu quả của dự án và sớm triển khai đưa dự án vào hoạt động theo tiến độ, các nhà đầu tư trong nước thường hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài dưới hình thức chuyển nhượng cổ phần hoặc chuyển nhượng toàn bộ/một phần dự án để được tiếp cận nguồn vốn vay từ nước ngoài với lãi suất thấp.. “Trong bối cảnh hiện nay, việc các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển nguồn điện mà không cần bảo lãnh Chính phủ là điểm tích cực trong thu hút đầu tư vào ngành điện. Ngoài ra, nhà đầu tư nước ngoài thường có kinh nghiệm và năng lực tốt hơn trong đầu tư, quản lý vận hành nhà máy. Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trong các dự án điện sẽ mang lại lợi ích tổng thể tốt hơn cho nhà đầu tư và xã hội”. Và đây là hoạt động bình thường trong cơ chế thị trường và được quy định trong Luật Đầu tư, Luật Điện lực – Đại diện Bộ Công Thương cho biết.

Bên cạnh những khó khăn, Ông Tín cũng đưa ra một số biện pháp khắc phục về cơ chế, chính sách: Sớm quyết định cho phép kéo dài cơ chế giá FIT theo Quyết định 39 đến hết năm 2023 đối với điện gió trên bờ và hết 2025 đối với điện gió ngoài khơi nhằm tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư sớm triển khai đầu tư đưa các dự án điện gió đã được bổ sung quy hoạch vào vận hành, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng. Đề xuất lựa chọn áp dụng cho một số dự án phù hợp, thuận lợi cho việc triển khai đầu tư nhanh trong các dự án đã được bổ sung quy hoạch để bổ sung nhanh nguồn điện trước nguy cơ thiếu điện trong giai đoạn 2021-2025.

Về điều kiện tiếp cận vốn vay: Kiến nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các ngân hàng thương mại cho phép các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực năng lượng được giảm yêu cầu về vốn tự hiện là 30-40% giảm xuống còn 15-20%, điều chỉnh giảm lãi suất cho vay dưới 8% và ưu tiên nguồn vốn dành riêng cho đầu tư năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió để nhà đầu tư thuận lợi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng đầu tư cho lĩnh vực này.

Đại diện Công ty cổ phần Helio Power có ý kiến về thị trường năng lượng tái tạo: Giai đoạn trước năm 2010, năng lượng tái tạo vẫn chưa thật sự được tin tưởng. Khi nói đến năng lượng tái tạo thì hầu như các nhà qui hoạch chỉ nghĩ đến thủy điện nhỏ do tính khả thi rất cao, sau năm 2010 mới quan tâm thêm đến các nguồn năng lượng tái tạo khác. Vào những năm sau này, do gia tăng nhu cầu tiêu thụ điện cộng với các chủ trương mới mang tính khuyến khích của Chính phủ phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, trong đó đáng kể nhất là năng lượng gió và năng lượng mặt trời, đã ngày càng được chú ý nhiều hơn. Theo xu hướng đó, vai trò của năng lượng gió và năng lượng mặt trời đã dần dần được xác định rõ hơn và đúng mức hơn trong các qui hoạch điện sau này. Trong Qui hoạch điện VII (giai đoạn 2011-2020, ký ngày 21/7/2011 theo QĐ số 1208/QĐ-TTg) thì tỉ trọng lượng điện phát ra từ các nguồn năng lượng tái tạo đã tăng dần theo thời gian. Tuy nhiên, do tình hình phát triển trong thực tế nhanh hơn so với dự kiến, Qui hoạch điện VII tỏ ra không còn phù hợp nữa. Chính vì vậy cho nên ngày 18/3/2016 Thủ tướng Chính phủ đã ký Qui hoạch điện VII điều chỉnh, trong đó nêu quan điểm rất quan trọng là phải phát triển thị trường điện lực cạnh tranh theo lộ trình nhằm đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh điện, đồng thời điều chỉnh theo hướng tăng tỉ trọng sản lượng điện từ các nguồn năng lượng tái tạo (không kể các nguồn thủy điện lớn, vừa và thủy điện tích năng). Trong Qui hoạch điện VII điều chỉnh cũng đề ra lộ trình cần thực hiện trong mỗi giai đoạn 5 năm như sau:

Giai đoạn từ 2016-2020: đưa vào vận hành thêm 21.651MW, trong đó công suất các nguồn phát điện năng lượng tái tạo được bổ sung là 3.722MW (chiếm 17,19%).

Giai đoạn từ 2021-2025: đưa vào vận hành thêm 38.010MW, trong đó công suất các nguồn phát điện năng lượng tái tạo được bổ sung là 6.290MW (chiếm 16,54%).

Giai đoạn từ 2026-2030: đưa vào vận hành thêm 36.192MW, trong đó công suất các nguồn phát điện năng lượng tái tạo được bổ sung là 15.190MW (chiếm 41,97%).

Điện mặt trời

Quyết định 11/2017/QĐ-TTg ký ngày 11/4/2017, là một dấu mốc quan trọng cho sự bùng nổ của điện mặt trời đến 6 tháng đầu năm 2019. Theo Quyết định này, để khuyến khích các nhà đầu tư dự án điện mặt trời, giá mua điện mặt trời là 9,35UScent/kWh đối với các dự án điện mặt trời đưa vào vận hành thương mại trước ngày 30/6/2019. Chính vì vậy, chỉ trong 6 tháng đầu năm 2019, công suất các nguồn phát điện từ năng lượng tái tạo của Việt Nam đã tăng thêm gần 4.500MW, nhưng chủ yếu chỉ đến từ điện mặt trời. Sự tập trung nhanh chóng và đột ngột các dự án điện mặt trời ở Ninh Thuận và Bình Thuận đã gây quá tải trầm trọng cho hệ thống lưới điện truyền tải ở khu vực, đã nảy sinh các vấn đề kỹ thuật mới mà các nhà qui hoạch trước đây chưa lường hết được. Theo các số liệu của EVN, cho đến giữa tháng 4/2019, mới chỉ có 4 nhà máy điện mặt trời với tổng công suất chưa đến 150MWp được đấu nối vào lưới điện. Tuy nhiên, đến ngày 30/6/2019 đã có tổng cộng 82 nhà máy điện mặt trời với tổng công suất 4.464MWp được đấu nối vào lưới điện và đưa vào khai thác thương mại, chiếm 8,28% tổng công suất lắp đặt của toàn hệ thống điện. Các dự án này được hưởng mức giá 9,35UScent/kWh trong thời gian 20 năm, trong số đó có 72 nhà máy điện với tổng công suất 4.189MWp thuộc quyền điều khiển của cấp điều độ quốc gia (A0) và 10 nhà máy điện với tổng công suất 275MWp thuộc quyền điều khiển của các cấp điều độ miền. Các số liệu thống kê cũng cho thấy, đến hết năm 2019 đã có thêm 13 nhà máy điện mặt trời với tổng công suất 630MWp được đóng điện, đưa tổng số nhà máy điện mặt trời trong toàn hệ thống lên đến con số 95.

Không chỉ các dự án điện mặt trời qui mô lớn, trong vài năm gần đây điện mặt trời mái nhà đã thu hút sự chú ý của nhiều hộ gia đình và các doanh nghiệp, tổng công suất lắp đặt điện mặt trời mái nhà cũng đã và đang được phát triển rất nhanh chóng. Nếu tính trên phạm vi cả nước, theo báo cáo tổng hợp của EVN, cho đến tháng 10/2020 đã có 1.500 MWp điện mặt trời mái nhà được lắp đặt. Theo Chương trình thúc đẩy điện mặt trời mái nhà tại Việt Nam giai đoạn 2019- 2025 đã được Bộ Công Thương phê duyệt (Quyết định số 2023/QĐ-BCT, ký ngày 05/7/2019), điện mặt trời mái nhà sẽ được chuyển đổi sang điều kiện thị trường với mục tiêu đến cuối năm 2025 sẽ có 100.000 hệ thống điện mặt trời mái nhà được đưa vào vận hành.

Vị đại diện Công ty cổ phần Helio Power cũng bày tỏ những quan tâm từ phía nhà đầu tư: Feed-in Tariff (FIT) hay còn gọi là biểu giá điện hỗ trợ, là chính sách được đưa ra nhằm khuyến khích phát triển các nguồn năng lượng tái tạo.  Năm 2017 Chính phủ ban hành cơ chế FIT 1 thông qua Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam theo đó Chính phủ mua điện mặt trời đồng giá cho tất cả loại hình điện mặt trời là 9,35 cent/kWh, có hiệu lực đến ngày 30/06/2019. Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg với biểu giá FIT 2 có hiệu lực thi hành từ ngày 22/5/2020 và thời hạn áp dụng đến hết ngày 31/12/2020, giá mua điện mặt trời trên mặt đất là 7,09 US cent/kWh (tương đương 1.644 đồng). Còn giá điện mặt trời nổi trên mặt nước là 7,69 US cent (tương đương 1.783 đồng), điện mặt trời mái nhà là 8,38 US cent/kWh (tương đương 1.943 đồng). Thời hạn của cơ chế giá điện FIT 2 sắp kết thúc, chúng tôi rất quan tâm chính sách giá điện mặt trời từ 01/01/2021 sẽ như thế nào?.

 Cụ thể: Chính Phủ, Bộ Công thương có kế hoạch gia hạn chính sách giá FIT 2 thêm thời gian để người dân và doanh nghiệp tiếp tục triển khai đầu tư điện mặt trời.

Trường hợp không gia hạn cơ chế giá FIT 2, chính sách giá điện mặt trời mới sẽ thay đổi như thế nào và khi nào có hiệu lực nhằm đảm bảo sự khuyến khích phát triển đầu tư điện mặt trời tiếp nối và liên tục? Biểu giá FIT 3 nếu có, thì có được phân loại mức giá ưu đãi đối với từng vùng cụ thể?.

Trường hợp cơ chế giá bán điện mặt trời sau ngày 31/12/2020 được áp dụng theo hình thức đấu thầu giá bán điện, Nhà đầu tư rất mong Chính phủ sớm ban hành chính sách, quy định về cách thức thực hiện, quy trình triển khai và đối tượng được áp dụng chính sách… để có sự chuẩn bị tốt về nguồn vốn, nhân lực triển khai đầu tư sau khi chính sách mới có hiệu lực.

tan

Ông Hoàng Mạnh Tân – Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Sơn 

Ông Hoàng Mạnh Tân – Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Sơn Hà cũng bày tỏ quan điểm: Từ hơn 15 năm trước đây, Tập đoàn Sơn Hà đã đầu tư nghiên cứu, định hướng phát triển và cho ra mắt các dòng sản phẩm phục vụ các nhu cầu thiết yếu của người dân sử dụng năng lượng tái tạo như: Hệ thống Thái Dương Năng (Hệ thống làm nóng nước bằng năng lượng mặt trời- hiện đã trở thành sản phẩm phổ thông, được sử dụng rộng rãi) và Hệ thống điện năng lượng tái tạo (Điện mặt trời mặt đất và áp mái - vừa là Nhà đầu tư vừa kinh doanh).

Trong quá trình thực hiện đầu tư và kinh doanh, doanh nghiệp cũng gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc, trong đó chủ yếu đối với phát triển dự án Điện Mặt trời, cụ thể Hạ tầng truyền tải điện: Hạ tầng hệ thống truyền tải điện hiện tại chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư, phát triển các dự án Điện mặt trời, chưa khai thác được tiềm năng hiện có. Nhiều khu vực có tiềm năng tốt, điều kiện tốt để đầu tư dự án Điện mặt trời tuy nhiên việc không có đường dây truyền tải hoặc đường dây không đủ truyền tải hết công suất dự án.

Các công trình đường dây đấu nối các dự án điện hiện không có cơ sở pháp lý để Nhà đầu tư huy động vốn đầu tư và quản lý, vận hành (Truyền tải điện đang là lĩnh vực độc quyền của EVN, chi phí đầu tư đường dây đấu nối được tính vào chi phí dự án và khi hoàn thành phải thuê EVN vận hành) .

Lãi suất Ngân hàng trong  nước cao: Với mức giá bán ĐMT mặt đất theo Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg, ngày 06/4/2020 của Chính phủ ngày là 7.09 cent/kw (Khoảng 1.600 Vnđ/Kw) và lãi suất của Ngân hàng thương mại trong nước khoảng từ 10 – 11.5 %/năm, theo tính toán tương ứng với suất đầu tư các dự án hiện tại, thời hạn hoàn vốn đầu tư >10 năm thì hiệu quả đầu tư không cao, không khuyến khích được các Nhà đầu tư, với mức giá trên chỉ hấp dẫn với các Nhà đầu tư nước ngoài hoặc các doanh nghiệp vay được nguồn vốn nước ngoài có lãi xuất thấp để đầu tư.

Cơ chế, chính sách: Hiện tại, nhà đầu tư các dự án Điện mặt trời và điện gió đang căn cứ vào các quyết định Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg, giá mua điện Mặt trời phát thương mại của các DA phát lên lưới trước ngày 31/12/2020 và Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29/6/2011, Quyết định 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ trong đó quy định giá mua điện Gió phát thương mại các dự án phát lên lưới trước ngày 01/01/2021 và chưa có hướng dẫn, quy định cụ thể sau các thời hạn trên để Nhà đầu tư căn cứ triển khai.

Thêm vào đó thời gian để hoàn thiện thủ tục đầu tư theo quy định của Nhà nước và chuẩn bị đủ các điều kiện để khởi công các dự án từ 12-16 tháng, thời gian xây dựng các dự án bị ảnh hưởng thiên tai, dịch bệnh trong năm nay nên nhiều dự án buộc phải dừng lại không tiếp tục triển khai đầu tư gây thiệt hại cho Nhà đầu tư

Nói riêng về Điện mặt trời áp mái, đây là nguồn điện được xã hội hóa mang hiệu quả kinh tế, xã hội cao, giảm rất nhiều chi phí đầu tư truyền tải cho ngành điện, hiện nay ngày càng nhiều người dân đang nhận thức được công dụng và lắp đặt hệ ĐMT áp mái cho các công trình nhà dân, trong tương lai dự kiến sẽ là một sản phẩm thông dụng được lắp đặt phổ biến trên các công trình dân dụng. Tại các Khu Công nghiệp lớn, các khu đô thị lớn hiện có diện tích mái công trình lớn, có tiềm năng và điều kiện thuận lợi để đầu tư các dự án ĐMT áp mái các dự án Điện mặt trời ngoài vướng mắc về đường dây truyền tải, hiện cũng vướng mắc về cơ chế đầu tư (quy định công suất và thời hạn áp dụng cơ chế giá mua điện hiện hành) .

Giải pháp đề xuất, khắc phục: Cần có quy hoạch tổng thể, kế hoạch đầu tư phát triển dự án nguồn và đường dây truyền tải đồng bộ để đảm bảo truyền tải được công suất các dự án Điện năng lượng mặt trời các khu vực có lợi thế; Có cơ chế, chính sách xã hội hóa các nhánh công trình truyền tải điện, đấu nối các dự án, cụm dự án để huy động các nguồn lực xã hội đầu tư giảm áp lực đầu tư cho Ngành điện; Cần có cơ chế, chính sách ổn định, dài hạn quy định việc phát triển các dự án điện năng lượng tái tạo để các Nhà đầu tư có cơ sở và thời gian nghiên cứu, tính toán và chuẩn bị nguồn lực đầu tư; Cần có cơ chế tháo gỡ những quy định không phù hợp (Quy định công suất <1mw/dự án) và tiếp tục khuyến khích đầu tư phát triển các dự án Điện mặt trời mái nhà; Cần có cơ chế, quy định khuyến khích các Nhà đầu tư đầu tư phát triển kinh doanh hệ thống lưu trữ điện năng  (Pin, ắc quy …) để tăng khả năng tự điều tiết lưới điện và ổn định công suất lưới điện.

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quận đội MB Bank bày tỏ quan điểm: Từ năm 2015, MB đã xác định Năng Lượng tái tạo là xu hướng phát triển của Việt Nam. Để chuẩn bị cho phát triển và tìm hiểu về ngành, MB đã phối hợp các tổ chức tư vấn trong và ngoài nước thực hiện nhiều cuộc hội thảo với sự tham gia của các chuyên gia hàng đầu để tìm hiểu về ngành, đồng thời cũng cử nhiều đoàn công tác ra nước ngoài để tìm hiểu sâu về lĩnh vực điện năng lượng tái tạo.

Sau thời gian nghiên cứu MB xác định Việt Nam là nước có nhiều thuận lợi trong việc phát triển năng lượng tái tạo và MB đã xác định ngành năng lượng tái tạo là ngành tăng trưởng và ưu tiên cấp tín dụng, đặc biệt là đối với lĩnh vực điện gió và điện mặt trời. Từ năm 2017, MB đã thực hiện tiếp cận thẩm định rất nhiều dự án thuộc lĩnh vực này và hiện MB trở thành ngân hàng tiên phong trong hệ thống các ngân hàng tại Việt Nam cấp tín dụng cho điện gió, điện mặt trời. Ước tính sơ bộ, MB tài trợ tín dụng cho các dự án cung cấp khoảng 15% tổng quy mô công suất phát điện mặt trời; khoảng 12% công suất phát điện gió trên cả nước.

Tuy nhiên, trong quá trình thẩm định cho vay MB cũng gặp một số khó khăn vướng mắc như: Các dự án điện năng lượng tái tạo có thời gian vay vốn rất dài, từ 10-15 năm nên các Ngân hàng bị vướng các giới hạn an toàn, tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Việc này làm giảm quy mô vốn của ngân hàng có thể cấp tín dụng cho lĩnh vực năng lượng tái tạo; Rủi ro về giải tỏa công suất và từ chối mua điện trên PPA làm cho ngân hàng rất khó thẩm định hiệu quả dự án; Nhằm phát triển kinh tế xã hội địa phương, các doanh nghiệp triển khai dự án thường là doanh nghiệp mới được thành lập tại các địa phương nên năng lực tài chính chỉ có vốn tự có. Việc thẩm định năng lực tài chính, kinh nghiệm triển khai và năng lực đầu tư của khách hàng là khó khăn; Các dự án năng lượng tái tạo được định nghĩa là dự án tài trợ chuyên biệt nên hệ số RWA được đánh giá ở mức 160% là mức khá cao và hạn chế nguồn vốn cấp tín dụng cho lĩnh vực này; Nghị đinh 81/2020-NĐ-CP ra đời, các dự án năng lượng tái tạo cơ bản không phát hành được trái phiếu, do quy định mỗi đợt phát hành cách nhau 6 tháng, trong khi nhu cầu là liên tục.

Để hỗ trợ khơi thông dòng vốn cho tín dụng Xanh phục vụ các dự án Năng lượng tái tạo, Tôi xin đề xuất một số nội dung đối với Ngân hàng Nhà Nước: Hoàn thiện hướng dẫn và xây dựng cơ chế cho tín dụng xanh. Xem xét loại trừ hoặc tính một phần của các khoản vay dài hạn cho các dự án tín dụng xanh vào các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn về tỷ lệ tối đa vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Xem xét giảm tỷ lệ tính hệ số rủi ro RWA đối với các doanh nghiệp dự án từ 160% xuống còn 100%.

Có các chương trình hỗ trợ hoặc kết nối với các định chế tài chính nước ngoài để có chương trình tái cấp vốn, phát hành trái phiếu xanh ưu đãi cho các ngân hàng, doanh nghiệp tham gia nhiều vào chương trình tín dụng xanh.

Ưu tiên giới hạn tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng cho vay vào các dự án Năng lượng tái tạo hằng năm.

Bộ Công Thương và EVN: Xem lại hợp đồng mẫu, không đẩy rủi ro về doanh nghiệp, doanh nghiệp đã được phê duyệt dự án và tính toán hiệu quả trên công suất phát thiết kế, khi phát điện EVN phải mua hết công xuất phát, không để quyền từ chối mua điện trên các hợp đồng mẫu.

Bộ Tài chính – Xem lại nghị định 81/2020-NĐ-CP, không giới hạn số đợt phát hành, thời gian giữa các đợt phát hành đối với các doanh nghiệp phát hành trái phiếu thực hiện trực tiếp vào dự án, các dự án điện gió phải thi công mất 2-3 năm nên việc giới hạn các đợt phát hành như nghị định 81/2020-NĐ-CP làm cho các chủ đầu tư không huy động được nguồn vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Bạn nghĩ sao?